Những Lời Dạy Từ Các Thiền Sư Việt Nam Xưa ( Phần 3 ) – PHÒNG NÚI KHỞI HỨNG

 I
Ai trói lại mong cầu giải thoát
Chẳng phàm nào phải kiếm thần tiên
Vượn nhàn, ngựa mỏi, người đã lão
Như cũ vân trang một chõng thiền.
II
Phải quấy niệm rơi hoa buổi sớm
Lợi danh tâm lạnh với mưa đêm
Mưa tạnh, hoa trơ, non vắng lặng
Chim kêu một tiếng lại xuân tàn.

SƠN PHÒNG MẠN HỨNG
I
Thùy phược cánh tương cầu giải thoát
Bất phàm hà tất mích thần tiên
Viên nhàn mã quyện nhân ưng lão
Y cựu vân trang nhất tháp thiền.
II
Thị phi niệm trục triêu hoa lạc
Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn
Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch
Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn.

TRẦN NHÂN TÔNG (1258 – 1308) – Bản dịch HT Thanh Từ

(BÌNH: Hãy chứng ngộ rằng bạn không có tự ngã. Trong khi nằm, ngồi, đứng và đi, hãy liên tục thấy rằng bạn không có tự ngã, và rằng không thứ gì có tự ngã cả. Rồi bạn có thể thấy là không hề có một ‘cái tôi’ nào đang bị trói buộc. Từ đó, từ sau chứng ngộ đó, bạn biết một phần về vận hành của tâm, và thiền định tự nhiên trở thành da thịt của bạn. Dù vậy, bất kể mức độ bạn chứng ngộ, các thói quenxấu vẫn khó từ bỏ; nhưng bạn đã biết cách an tâmmột cách tự nhiên.
Thêm nữa, khỉ và ngựa là biểu tượng cho các niệm bám chấp. Nhìn vào tâm, người tu thiền thấy tất cả các niệm biến mất như hoa rơi buổi sáng.)

Nguồn:thuvienhoasen.org