---o0o---
Chú thích
- S: nguyên tác tiếng Sanskrit của mục từ dạng La-tinh hóa
- P: nguyên tác tiếng Pàli của mục từ dạng La-tinh hóa
- A: tiếng Anh
- H: tiếng Hán
- Ph: tiếng Pháp
- T: tên mục từ bằng tiếng Tây Tạng dạng La-tinh hóa.
- Hâ: các hình thức phiên âm tiếng Việt khác nhau của một mục từ.
- Hd: các hình thức dịch nghĩa khác nhau của một mục từ.
- Td: tân dịch.
- Cd: cựu dịch.
- Đl: đối lại
- x: xem
- Đn: đồng nghĩa.
- Vd: ví dụ
- Gđ: cách gọi đầy đủ của một mục từ.
- Gt: cách gọi giản lược hay vắn tắt của một mục từ.
- Cg: hình thức đồng nghĩa hay tên gọi khác của một mục từ.
- Tên khoa học: tên gọi theo khoa học của một mục từ.
- k. ng.: khẩu ngữ
- X.: xem.
- CĐTĐL: Cảnh Đức Truyền Đăng lục
- CTTNL: Cổ tôn túc ngữ lục
- ĐQMT: Đại quang minh tạng
- DTNL: Duy Tắc ngữ lục
- GTPĐL: Gia Thái Phổ Đăng lục
- HĐNL: Hư Đường ngữ lục
- HSLNMDT: Hám Sơn Lão Nhân Mộng Du tập
- KTTQTĐL: Kiến trung tịnh quốc tục đăng lục
- LĐHY: Liên Đăng Hội Yếu
- LSPGĐT: Lịch Sử Phật Giáo Đàng Trong
- MANL: Mật Am ngữ lục
- MBTL: Minh Bản Tạp lục
- MGNL: Minh Giác ngữ lục
- NĐHN: Ngũ Đăng Hội Nguyên
- NGCTT: Ngũ Gia Chính Tông Tán
- NHQL: Nguyên Hiền quảng lục
- NLNL: Nguyên Lai ngữ lục
- NTNL: Như Tịnh ngữ lục
- PDNL: Pháp Diễn ngữ lục
- PDNL: Phần Dương ngữ lục
- PKNL: Phạm Kỳ ngữ lục
- PQĐTĐ: Phật Quang Đại Từ Điển
- TBCTT: Tăng Bảo Chính Tục truyện
- TLTBT: Thiền Lâm Tăng Bảo truyện.
- ThQST: Thiền Quan Sách Tiến
- TĐT: Tổ Đường tập
- TCTT: Tống Cao Tăng truyện
- TTĐL: Tục Truyền Đăng lục
- ThMMBTSTL: Thiên Mục Minh Bản Thiền sư tạp lục
- VHVNTH 1989-1995: Văn hóa Việt Nam Tổng Hợp 1989-1995

---o0o---
Danh Từ Phật Học: Tứ Thập Bát Nguyện
----------------------------- Pháp Số Căn Bản - Cs Hạnh Cơ -----------------------------
● 48 Lời Nguyện. Đây tức là 48 lời thệ nguyện của Đức Phật A Di Đà đã được phát ra từ khi Ngài còn tu tập hạnh Bồ Tát. Trong các kinh có nội dung liên quan đến các lời nguyện này, sự ghi chép không giống nhau, như Bình Đẳng Giác Kinh (Chi Lâu Ca Sấm dịch vào đời Hậu-Hán) và Đại A Di Đà Kinh (Chi Khiêm dịch vào đời Ngô), kê ra có 24 lời nguyện; các Kinh Vô Lượng Thọ (Khương Tăng Khải dịch vào đời Tào Ngụy), Bi Hoa (Đàm Vô Sấm dịch vào đời Bắc-Lương), Đại Bảo Tích (Bồ Đề Lưu Chí đời Đường và nhiều vị khác dịch) v. v... kê ra có 48 lời nguyện; ngoài ra còn một vài kinh khác, hoặc nói có 36 nguyện, hoặc 46 nguyện, hoặc 49 nguyện; trong số đó, hai bản Kinh Vô Lượng Thọ (Khương Tăng Khải dịch) và Đại Bảo Tích so ra nhất trí và hoàn chỉnh nhất. Nay xin theo kinh Đại Bảo Tích, lược kể 48 lời nguyện của tì kheo Pháp Tạng (tiền thân của Đức Phật A Di Đà hồi còn tu hạnh Bồ Tát) như sau:
1. Quốc độ của Ngài tuyệt không có ba dường dữ (Địa Ngục, Ngạ Quỉ và Súc Sinh);
2. Chúng sinh (trời người) ở nước Ngài sau khi mạng chung sẽ vĩnh viễn không sinh về ba đường dữ;
3. Thân thể của tất cả chúng sinh ở trong nước Ngài đều có sắc vàng;
4. Tất cả chúng sinh trong nước Ngài đều bình đẳng, không có xấu đẹp khác nhau;
5. Tất cả chúng sinh trong nước Ngài đều có Túc Mạng Thông, biết rõ nhân duyên quá khứ;
6. Tất cả chúng sinh trong nước Ngài đều có Thiên Nhãn Thông, thấy suốt vô lượng Phật độ trong mười phương không bị chướng ngại;
7. Tất cả chúng sinh trong nước Ngài đều có thiên nhĩ thông, nghe được pháp âm của chư Phật khắp mười phương;
8. Tất cả chúng sinh trong nước Ngài đều có tha tâm thông, biết được tâm niệm của khắp cả chúng sinh;
9. Tất cả chúng sinh trong nước Ngài đều có thần túc thông, trong một sát na có thể đi đến khắp các Phật độ trong mười phương;
10. Tất cả chúng sinh trong nước Ngài đều không còn khởi niệm tham ái đối với thân thể;
11. Tất cả chúng sinh trong nước Ngài đều thường xuyên sống trong Chánh Định, cho đến khi diệt độ;
12. Ánh sáng của Ngài sáng soi vô lượng, chiếu khắp mười phương Phật độ không bị chướng ngại;
13. Thọ mạng của ngài dài lâu vô lượng, làm lợi ích cho chúng sinh vô tận;
14. Chúng Thanh Văn ở trong nước Ngài nhiều vô lượng vô số;
15. Thọ mạng của chúng sinh trong nước Ngài, ngoại trừ nguyện lực riêng, đều dài lâu không có hạn lượng;
16. Tất cả chúng sinh trong nước Ngài đều không nghe một lời Bất Thiện;
17. Nguyện chư Phật khắp mười phương đều xưng tán danh hiệu (A Di Đà) của Ngài;
18. Nguyện tất cả chúng sinh trong mười phương, nếu hết lòng tin tưởng, muốn vãng sinh về nước Ngài, chí thành niệm danh hiệu Ngài 10 niệm, đều được Ngài tiếp dẫn về; đây là lời nguyện trọng yếu nhất trong 48 lời nguyện của Ngài;
19. Chúng sinh trong mười phương Phát Tâm bồ đề, tu các công đức, thành tâm phát nguyện vãng sinh về nước Ngài, đến phút lâm chung, Ngài cùng thánh chúng sẽ hiện ngay trước mặt để tiếp dẫn;
20. Chúng sinh trong mười phương nghe danh hiệu của Ngài, nghĩ nhớ đến nước Ngài, chí thành đem mọi công đức hồi hướng muốn sinh về nước Ngài, chắc chắn sẽ được toại nguyện;
21. Tất cả chúng sinh trong nước Ngài đều đầy đủ 32 tướng tốt;
22. Chư vị Bồ Tát ở các quốc độ khác, sau khi sinh về nước Ngài, ngoại trừ có bản nguyện giáo hóa riêng, tất cả đều đạt đến địa vị “Nhất Sinh Bổ Xứ”;
23. Chư Bồ Tát ở trong nước Ngài đều nương Phật lực, chỉ trong khoảng bữa ăn có thể đến cúng dường chư Phật ở các Phật độ trong khắp mười phương;
24. Chư Bồ Tát ở trong nước Ngài, trong khi cúng dường chư Phật, muốn có bao nhiêu vật phẩm để cúng dường cũng đều có đầy đủ như ý;
25. Chư Bồ Tát ở trong nước Ngài đều có khả năng diễn nói Nhất Thiết Trí;
26. Chư Bồ Tát ở trong nước Ngài đều có thân cứng chắc như kim cương, mạnh mẽ như thần Na La Diên;
27. Tất cả chúng sinh và vạn vật trong nước Ngài đều nghiêm tịnh vi diệu, hình sắc đặc thù, dù người có Thiên Nhãn Thông cũng không biết rõ ràng danh số;
28. Chư Bồ Tát cho đến những người chỉ có chút ít công đức ở trong nước Ngài đều có khả năng thấy biết sự cao rộng và sắc sáng vô lượng của cây đạo tràng;
29. Chư Bồ Tát ở trong nước Ngài đều thọ trì phúng tụng kinh pháp mà được trí tuệ biện tài;
30. Chư Bồ Tát ở trong nước Ngài đều có trí tuệ biện tài vô hạn lượng;
31. Đất ở trong nước Ngài trong sạch như gương, có thể soi thấy các Phật độ ở mười phương;
32. Vạn vật ở trong nước Ngài đều do vô lượng châu báu và trăm ngàn thứ hương vi diệu làm thành, khiến cho người nghe mùi hương đều tu Phật hạnh;
33. Ánh sáng của Ngài chiếu soi khắp các thế giới trong mười phương, các chúng sinh chạm được ánh sáng ấy đều cảm thấy thân tâm nhẹ nhàng.
34. Chúng sinh khắp thế giới mười phương nghe được danh hiệu Ngài đều chứng được Vô Sinh Pháp Nhẫn và các pháp môn tổng trì sâu xa;
35. Những người nữ trong mười phương thế giới, nghe được danh hiệu Ngài liền Phát Tâm bồ đề, thì sau khi mạng chung sẽ không trở lại thọ thân nữ nữa;
36. Chư Bồ Tát ở mười phương thế giới, nghe được danh hiệu Ngài, sau khi mạng chung sẽ luôn tu phạm hạnh cho đến khi thành Phật;
37. Hàng trời người trong khắp mười phương thế giới, khi nghe danh hiệu Ngài liền vui mừng tin tưởng, kính lễ và tu tập hạnh Bồ Tát, thì sẽ được tất cả trời người đều kính trọng;
38. Tất cả chúng sinh ở trong nước Ngài, muốn có y phục thì liền có như ý;
39. Tất cả chúng sinh ở trong nước Ngài đều hưởng được niềm vui giống như các vị tì kheo đã hoàn toàn dứt trừ hết lậu hoặc;
40. Chư Bồ Tát ở trong nước Ngài, nếu muốn thấy vô lượng Phật độ nghiêm tịnh trong khắp mười phương, cứ nhìn vào cây báu thì liền thấy rõ ràng như thấy mặt mình trong gương;
41. Chư Bồ Tát ở các quốc độ trong các phương khác, khi nghe được danh hiệu Ngài thì được các căn đầy đủ, không bị khiếm khuyết, cho đến khi thành Phật;
42. Chư Bồ Tát ở các quốc độ trong các phương khác, khi nghe được danh hiệu Ngài liền được an trú nơi định thanh tịnh giải thoát, trong khoảng một niệm có thể cúng dường vô lượng chư Phật mà không bị mất Chánh Định;
43. Chư Bồ Tát ở các quốc độ trong các phương khác, khi nghe danh hiệu Ngài, sau khi mạng chung sẽ được sinh vào gia đình tôn quí;
44. Chư Bồ Tát ở các quốc độ trong các phương khác, nghe được danh hiệu Ngài, liền hoan hỉ tu hạnh Bồ Tát, cội gốc công đức đầy đủ;
45. Chư Bồ Tát ở các quốc độ trong các phương khác, nghe được danh hiệu Ngài liền được an trú trong định phổ đẳng (thường thấy chư Phật đồng hiện tiền), cho đến khi thành Phật;
46. Chư Bồ Tát ở trong nước Ngài đều tùy chí nguyện mà nghe pháp một cách tự tại;
47. Chư Bồ Tát ở các quốc độ trong các phương khác, nghe danh hiệu Ngài liền tiến đến bậc bất thối chuyển;
48. Chư Bồ Tát ở các quốc độ trong các phương khác, nghe danh hiệu Ngài liền chứng được đệ nhất, đệ nhị và đệ tam Pháp Nhẫn, và các pháp bất thối chuyển.
----------------------------- Tam Tạng Pháp Số - Cs Lê Hồng Sơn -----------------------------
● 四十八願 (Đại Di Đà Kinh)
Phật A Di Đà, ban đầu có tên là Tỳ Kheo Pháp Tạng, lúc ấy, ở trước Phật tự tại vương mà thưa rằng con phát tâm vô thượng Bồ Đề, nguyện khi thành Phật, thân tướng quang minh, cõi nước thù thắng, có được hay không ? Phật Tự Tại Vương biết trí thức cao minh, tâm nguyện to lớn của Tỳ Kheo Pháp Tạng, bèn hiển hiện hai ngàn một trăm vạn cõi Phật với đầy đủ các tướng lành, dữ, tốt, xấu. Pháp Tạng nhất tâm, liền chứng được thiên nhãn thấy tất cả chừng ấy cõi Phật. Lại thưa Phật Tự Tại Vương rằng con đã thừa nhận cõi Phật trên và lập hạnh trang nghiêm quốc độ thanh tịnh ấy, nhờ Phật chuẩn y cho, rồi phát bốn tám lời nguyện sau:
Nguyện 1: Mong trong nước của con không có Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh cho đến các loài bò, bay, máy cựa. Mong ước này, nếu không được, con trọn đời không thành Phật.
Nguyện 2: Mong trong nước con không có người nữ. Nhân dân, các trời của vô số thế giới, cho đến loài bò, bay, máy cựa, sanh về nước của con đều được hóa sanh từ hoa sen trong ao nước bảy báu. Mong ước này, nếu không được, con trọn đời không thành Phật.
Nguyện 3: Mong người trong nước của con, khi muốn ăn thì mười thức chứa đầy trong bát bảy báu, hiện ra trước mặt, ăn xong bát tự nhiên mất. Mong ước này, nếu không được, con trọn đời không thành Phật.
Nguyện 4: Mong người trong nước của con, muốn có y phục, theo ý tự đến, không nhờ đến may vá, giặt giũ. Mong ước này, nếu không được, con trọn đời không thành Phật.
Nguyện 5: Mong trong nước của con từ mặt đất đến không trung, đều có nhà cửa, cung điện, lâu đài, ao, sông, cây cảnh do vô lượng châu báu, trăm ngàn hoa hương hợp lại mà thành, với trang sức kỳ diệu, siêu việt tất cả. Hương thơm ấy xông ướp khắp mười thế giới, chúng sanh ngửi được đều tu theo Phật hạnh. Mong ước này, nếu không được, con trọn đời không thành Phật.
Nguyện 6: Mong người trong nước của con, tâm luôn thương mến, kính trọng nhau, không ghen ghét nhau. Mong ước này, nếu không được, con trọn đời không thành Phật.
Nguyện 7: Mong người trong nước của con, dứt hết tâm dâm dục, nóng nảy, ngu si. Mong ước này, nếu không được, con trọn đời không thành Phật.
Nguyện 8: Mong người trong nước của con, đều cùng một lòng lành, không có sai lầm, suy nghĩ khác, nếu nói thì đều biết ý của nhau. Mong ước này, nếu không được, con trọn đời không thành Phật.
Nguyện 9: Mong người trong nước của con, đều không nghe đến danh từ bất thiện, huống chi là có thật việc ấy. Mong ước này, nếu không được, con trọn đời không thành Phật.
Nguyện 10: Mong người trong nước của con, biết thân không thật nên tâm không tham đắm. Mong ước này, nếu không được, con trọn đời không thành Phật.
Nguyện 11: Mong người trong nước của con, tuy có chư thiên, so với đời có khác, nhưng hình dung đều cùng một màu vàng ánh, diện mạo tươi đẹp, thanh tịnh, không chút xấu xí, kỳ dị. Mong ước này, nếu không được, con trọn đời không thành Phật.
Nguyện 12: Mong tuổi thọ của con lâu dài ngàn ức vạn kiếp; cho dù trời, người trong mười phương vô số thế giới cho đến các loài bò bay, máy cựa đều được làm người, đều được làm Duyên Giác, Thinh Văn, đều nhất tâm tọa thiền muốn biết số tuổi ấy cũng không thể biết được. Mong ước này, nếu không được, con trọn đời không thành Phật.
Nguyện 13: Mong số lượng nhân dân trong nước con, đông đến ngàn ức vạn; cho dù trời, người trong mười phương ngàn ức thế giới cho đến các loài bò, bay, máy cựa đều được làm người, đều được làm Duyên Giác, Thinh Văn, đều nhất tâm tọa thiền, muốn biết số dân ấy, cũng không thể biết được. Mong ước này, nếu không được, con trọn đời không thành Phật.
Nguyện 14: Mong người trong nước của con đều sống lâu đến vô số kiếp, không ai có thể tính toán biết được. Mong ước này, nếu không được, con trọn đời không thành Phật.
Nguyện 15: Mong người trong nước của con, hưởng thọ sự an vui giống như Tỳ Kheo viễn ly sanh tử. Mong ước này, nếu không được, con trọn đời không thành Phật.
Nguyện 16: Mong người trong nước của con ở ngôi chánh tín, xa lìa điên đảo tưởng, các căn vắng lặng, hoàn toàn vào tịch diệt. Mong ước này, nếu không được, con trọn đời không thành Phật.
Nguyện 17: Mong con nói pháp, hành đạo gấp mười lần các vị Phật khác. Mong ước này, nếu không được, con trọn đời không thành Phật.
Nguyện 18: Mong người trong nước của con đều am tường kiếp trước, biết việc đã làm từ trăm ngàn ức na do tha kiếp. Mong ước này, nếu không được, con trọn đời không thành Phật. (Na Do Tha là tiếng Phạn, tiếng Hoa là Vạn Ức).
Nguyện 19: Mong người trong nước của con đều được thiên nhãn thấy trăm, ngàn ức na do tha thế giới. Mong ước này, nếu không được, con trọn đời không thành Phật.
Nguyện 20: Mong người trong nước của con, đều được thiên nhĩ nghe trăm, ngàn, ức na do tha chư Phật nói pháp và có thể thọ nhận tất cả. Mong ước này, nếu không được, con trọn đời không thành Phật.
Nguyện 21: Mong người trong nước của con, đều được tâm trí biết trăm, ngàn, ức tâm niệm chúng sanh trong na do tha thế giới. Mong ước này, nếu không được, con trọn đời không thành Phật.
Nguyện 22: Mong người trong nước của con, đều được thần túc thông, trong một niệm, có thể đi đến trăm, ngàn, ức na do tha thế giới khác. Mong ước này, nếu không được, con trọn đời không thành Phật.
Nguyện 23: Mong danh hiệu của con, chư Phật trong mười phương vô số thế giới đều nghe đến; tất cả đại chúng đều khen ngợi công đức, cõi nước kỳ diệu của con; trời, người cho đến loài bò, bay, máy cựa nghe đến danh hiệu của con đều phát khởi tâm từ, an vui và đời sau cùng sanh về nước con. Mong ước này, nếu không được, con trọn đời không thành Phật.
Nguyện 24: Mong ánh sáng từ đỉnh đầu của con nhiệm mầu hơn hẳn trăm, ngàn, ức, vạn ánh sáng của mặt trời, mặt trăng. Mong ước này, nếu không được, con trọn đời không thành Phật.
Nguyện 25: Mong ánh sáng của con, chiếu soi những chỗ tối tăm trong trời đất đều được rực sáng. Từ trời, người cho đến các loài bò bay, máy cựa thấy ánh sáng ấy đều sanh lòng từ bi làm việc lành và đời sau đều về nước con. Mong ước này, nếu không được, con trọn đời không thành Phật.
Nguyện 26: Mong trời, người trong mười phương vô số thế giới, cho đến các loài bò bay, máy cựa nhận được ánh sáng của con tiếp xúc đến thân thể thì từ hòa hơn cả những vị khác. Mong ước này, nếu không được, con trọn đời không thành Phật.
Nguyện 27: Mong trời, người trong mười phương vô số thế giới, phát tâm Bồ Đề, thọ trì, trai giới, thực hành sáu Ba La Mật, tu tập các công đức, chí tâm phát nguyện muốn sanh về nước con. Khi sắp chết, con và đại chúng hiện ra trước người ấy và hướng dẫn để không thối chuyển hạnh vị Bồ Tát. Mong ước này, nếu không được, con trọn đời không thành Phật.
Nguyện 28: Mong trời, người, trong mười phương vô số thế giới, nghe danh hiệu con thì đốt hương, tung hoa, thắp đèn, treo tượng, cúng dường thực phẩm cho các vị Sa Môn, xây dựng tháp, chùa, giữ gìn trai giới, và làm các việc lành; một lòng khẩn thiết nhớ đến con, tuy chỉ trong một ngày đêm, cũng được sanh về nước con. Mong ước này, nếu không được, con trọn đời không thành Phật.
Nguyện 29: Mong trời, người, trong mười phương vô số thế giới, chí tâm, tin tưởng, ao ước, chỉ niệm danh hiệu con mười tiếng thì chắc chắn kiếp sau sanh về nước con; trừ kẻ ngũ nghịch, chê bai chánh pháp. Mong ước này, nếu không được, con trọn đời không thành Phật.
Nguyện 30: Mong trời, người, trong mười phương vô số thế giới, cho đến các loài bò bay, máy cựa, đời trước làm ác, nghe đến danh hiệu con liền Sám Hối và làm lành, giữ gìn trai giới, nguyện sanh về nước con. Khi chết, những vị ấy không trải qua các đường ác, mà đầu thai ngay vào đời sau, tất cả ước muốn đều được như ý. Mong ước này, nếu không được, con trọn đời không thành Phật.
Nguyện 31: Mong trời, người, trong mười phương vô số thế giới, nghe danh hiệu con, năm vóc gieo xuống đất, cúi đầu làm lễ, vui mừng, tin tưởng, tu hạnh Bồ Đề, cho đến trời, người ai cũng kính trọng rất mực. Mong ước này, nếu không được, con trọn đời không thành Phật.
Nguyện 32: Mong người nữ, trong mười phương vô số thế giới, nghe danh hiệu con vui mừng, tin tưởng phát tâm Bồ Đề, chán thân nữ dơ ác, sau khi chết không làm thân ấy nữa. Mong ước này, nếu không được, con trọn đời không thành Phật.
Nguyện 33: Mong người nào đã sanh về nước con thì đều được làm Phật bổ xứ, trừ những người có bổn nguyện đến nơi khác giáo hóa chúng sanh, tu hạnh Bồ Tát, cúng dường chư Phật thì tự tại sanh về đó. Con dùng oai thần lực giúp cho những vị ấy, giáo hóa tất cả chúng sanh đều phát tâm tin tưởng, tu tất cả hạnh lành. Mong ước này, nếu không được, con trọn đời không thành Phật.
Nguyện 34: Mong người trong nước con muốn sanh đến nơi khác theo như ý nguyện mà không rơi lại vào đường ác. Mong ước này, nếu không được, con trọn đời không thành Phật.
Nguyện 35: Mong Bồ Tát trong nước con, bằng hương hoa, tràng phan, bảo cái, chân châu, anh lạc và tất cả nhu cầu khác, muốn đến vô lượng thế giới cúng dường chư Phật, thời gian trong một bữa ăn mà đi đến khắp hết các nơi ấy. Mong ước này, nếu không được, con trọn đời không thành Phật.
Nguyện 36: Mong Bồ Tát trong nước con, bằng muôn ngàn phẩm vật, cúng dường chư Phật trong mười phương, thì liền đến trước mặt chư Phật đó cúng dường đầy đủ, với thời gian chưa quá giờ ngọ của ngày ấy, rồi trở về lại nước con. Mong ước này, nếu không được, con trọn đời không thành Phật.
Nguyện 37: Mong Bồ Tát trong nước của con giữ chánh pháp bằng cách đọc tụng, giảng nói, chắc chắn được trí huệ biện tài. Mong ước này, nếu không được, con trọn đời không thành Phật.
Nguyện 38: Mong Bồ Tát trong nước của con có khả năng diễn thuyết tất cả pháp với trí huệ biện tài không có Hạn Lượng. Mong ước này, nếu không được, con trọn đời không thành Phật.
Nguyện 39: Mong Bồ Tát trong nước con có Kim Cang lực, thân thể có sắc vàng óng, đầy đủ tướng tốt, nói kinh, hành đạo không khác với Phật. Mong ước này, nếu không được, con trọn đời không thành Phật.
Nguyện 40: Mong ước con trong sạch, đến độ vô lượng thế giới trong mười phương soi rõ có thể thấy được. Ngồi dưới tàng cây bảy báu, Bồ Tát muốn thấy tất cả cõi Phật nghiêm tịnh, ứng hiện tức thời, giống như soi mặt vào tấm kính sáng. Mong ước này, nếu không được, con trọn đời không thành Phật.
Nguyện 41: Mong Bồ Tát trong nước con, tuy có vị công đức ít, cũng có thể thấy được cây đạo tràng của con, cao 4000 Do Tuần. Mong ước này, nếu không được, con trọn đời không thành Phật.
(Do Tuần là tiếng Phạn, tiếng Hoa là Hạn Lượng. một Do Tuần: 40 dặm hoặc 60 dặm hoặc 80 dặm).
Nguyện 42: Mong trời, người và tất cả vạn vật trong nước của con, đều trang nghiêm, thanh tịnh, sáng đẹp; hình thể, màu sắc hòa hợp tuyệt vời, vi diệu cùng cực, không còn lời khen ngợi. Chúng sanh, tuy có thiên nhãn, không thể nói hết tên và số lượng. Mong ước này, nếu không được, con trọn đời không thành Phật.
Nguyện 43: Mong người trong nước con, nghe pháp theo ý muốn của mình, bất cứ lúc nào, ở đâu. Mong ước này, nếu không được, con trọn đời không thành Phật.
Nguyện 44: Mong Bồ Tát, Thinh Văn trong nước của con đều là bậc trí huệ, oai thần đỉnh đầu phát ra ánh sáng, tiếng nói trong suốt rõ ràng, nói kinh hành đạo, so với Phật không khác. Mong ước này, nếu không được, con trọn đời không thành Phật.
Nguyện 45: Mong Bồ Tát ở các thế giới khác, nghe danh hiệu con, quy y, Tinh Tấn đều được Tam Muội giải thoát, thanh tịnh ở trong Chánh Định này, các Bồ Tát ấy cúng dường chư Phật nhiều không thể nghĩ bàn mà định ý không mất. Mong ước này, nếu không được, con trọn đời không thành Phật.
Nguyện 46: Mong chư Bồ Tát ở các thế giới khác nghe danh hiệu con, quy y Tinh Tấn, đều được Tam Muội phổ đẳng đến khi thành Phật, những vị này luôn thấy vô lượng chư Phật không thể nghĩ bàn. Mong ước này, nếu không được, con trọn đời không thành Phật.
Nguyện 47: Mong chư Bồ Tát trong thế giới khác, nghe danh hiệu con, quy y Tinh Tấn, thì đến địa bất thối chuyển. Mong ước này, nếu không được, con trọn đời không thành Phật.
Nguyện 48: Mong chư Bồ Tát trong thế giới khác, nghe danh hiệu con, quy y Tinh Tấn, thì được địa vị nhẫn thứ nhất, thứ hai, thứ ba; đối với pháp Phật chắc chắn không thối chuyển. Mong ước này, nếu không được, con trọn đời không thành Phật.
(Tam nhẫn là âm hưởng nhẫn, nhu Thuận Nhẫn, Vô Sanh Pháp Nhẫn hay Hỉ nhẫn, ngộ nhẫn, Tín Nhẫn).
Thế nào là luân hồi?     Vợ Chồng Giành Ăn     Chuyển Sinh Thành Một Con Ngựa Để Trả Nợ     Chuyện Vãng Sinh Của Thú Vật (tt)     Dưa Leo Nhồi     Có Phúc Mới Được Chư Tăng Hộ Niệm     Hòa Thượng Thích Hoằng Khai (1883-1945)     Hỏi. Xin giải thích về triglycerides và lượng giới hạn có thể chấp nhận được trong máu. Lượng triglycerides của tôi là 421 mg/dL. Làm thế nào để giảm con số này xuống?     Người xưa dạy khi nghèo, mọi người nên làm gì?     Ðức Phật vô trách nhiệm chăng khi Ngài rời bỏ vợ con của mình?     


















Pháp Ngữ
Tĩnh lặng an ổn thân mình
Tiện tặn tri túc an bình sống vui.


Tháng Năm  

 



Đăng nhập


Playist


Bạn cần đăng nhập

Tu sĩ Việt Nam



Tu sĩ Quốc Tế


Album mới






Chuyên trang này được lập ra và hoạt động theo tinh thần Pháp Thí .
Tất cả các Kinh/Sách Phật Học trên trang này được sưu tầm từ các website Phật Giáo nên Ban Quản Trị có thể thiếu xót về mặt tác quyền đối với một số sách Phật Học .
Nếu quý Phật Tử / Tổ chức nào đang nắm tác quyền của các tác phẩm trên xin vui lòng Thông báo cho Ban Quản Trị biết, chúng tôi sẽ trao đổi trực tiếp để có thể có được bản quyền hợp lệ đối với các Sách Phật Học đó.
Ban Quản Trị trân trọng cám ơn.


Website có tất cả 78,946 pháp âm và 7,152 album thuộc tất cả các thể loại.
Có tổng cộng 138,925 lượt nghe.
Tổng số tu sĩ trong website 287, gồm cả tu sĩ trong nước và cả quốc tế.
Hiện đang có 1,332 thành viên đã đăng ký. Chào mừng thành viên mới nhất Minh Đức Phạm
Lượt truy cập 36,623,484