---o0o---
Chú thích
- S: nguyên tác tiếng Sanskrit của mục từ dạng La-tinh hóa
- P: nguyên tác tiếng Pàli của mục từ dạng La-tinh hóa
- A: tiếng Anh
- H: tiếng Hán
- Ph: tiếng Pháp
- T: tên mục từ bằng tiếng Tây Tạng dạng La-tinh hóa.
- Hâ: các hình thức phiên âm tiếng Việt khác nhau của một mục từ.
- Hd: các hình thức dịch nghĩa khác nhau của một mục từ.
- Td: tân dịch.
- Cd: cựu dịch.
- Đl: đối lại
- x: xem
- Đn: đồng nghĩa.
- Vd: ví dụ
- Gđ: cách gọi đầy đủ của một mục từ.
- Gt: cách gọi giản lược hay vắn tắt của một mục từ.
- Cg: hình thức đồng nghĩa hay tên gọi khác của một mục từ.
- Tên khoa học: tên gọi theo khoa học của một mục từ.
- k. ng.: khẩu ngữ
- X.: xem.
- CĐTĐL: Cảnh Đức Truyền Đăng lục
- CTTNL: Cổ tôn túc ngữ lục
- ĐQMT: Đại quang minh tạng
- DTNL: Duy Tắc ngữ lục
- GTPĐL: Gia Thái Phổ Đăng lục
- HĐNL: Hư Đường ngữ lục
- HSLNMDT: Hám Sơn Lão Nhân Mộng Du tập
- KTTQTĐL: Kiến trung tịnh quốc tục đăng lục
- LĐHY: Liên Đăng Hội Yếu
- LSPGĐT: Lịch Sử Phật Giáo Đàng Trong
- MANL: Mật Am ngữ lục
- MBTL: Minh Bản Tạp lục
- MGNL: Minh Giác ngữ lục
- NĐHN: Ngũ Đăng Hội Nguyên
- NGCTT: Ngũ Gia Chính Tông Tán
- NHQL: Nguyên Hiền quảng lục
- NLNL: Nguyên Lai ngữ lục
- NTNL: Như Tịnh ngữ lục
- PDNL: Pháp Diễn ngữ lục
- PDNL: Phần Dương ngữ lục
- PKNL: Phạm Kỳ ngữ lục
- PQĐTĐ: Phật Quang Đại Từ Điển
- TBCTT: Tăng Bảo Chính Tục truyện
- TLTBT: Thiền Lâm Tăng Bảo truyện.
- ThQST: Thiền Quan Sách Tiến
- TĐT: Tổ Đường tập
- TCTT: Tống Cao Tăng truyện
- TTĐL: Tục Truyền Đăng lục
- ThMMBTSTL: Thiên Mục Minh Bản Thiền sư tạp lục
- VHVNTH 1989-1995: Văn hóa Việt Nam Tổng Hợp 1989-1995

---o0o---
Danh Từ Phật Học: Cửu Duyên Sanh Thức
----------------------------- Tam Tạng Pháp Số - Cs Lê Hồng Sơn -----------------------------
● 九緣生識 (Thành Duy Thức Luận và Tông Cảnh Lục)
Duyên là giúp đỡ đưa đến thành tựu. Cửu duyên sanh là minh, không, căn, cảnh,… có chín thứ duyên để sanh ra nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, … tám thứ thức. Vì năm thức nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, dựa vào tướng phần của thức thứ tám lập nên, do Chủng Tử của thức thứ tám sanh ra, nắm lấy các cảnh minh, không làm tướng. Thức thứ sáu duyên tướng phần của thức thứ tám mà được sanh ra, giữ lấy cảnh giới của năm trần mà phân biệt, nương vào thức thứ bảy mà có khả năng chấp thủ. Thức thứ bảy duyên tướng phần của thức thứ tám mà khởi lên, chuyển tính chất nhiễm hay tịnh của thức thứ sáu mà làm chỗ dựavào. Thức thứ tám là căn bổn của các thức khác, bao hàm Chủng Tử của các pháp, nương vào thức thứ bảy mới có thể truyền đạt, nâng đỡ cho thức của năm căn mà cho là tướng. Do đó nên biết thức nhờ duyên mà sanh; duyên nhờ thức mà có, nương tựa, nâng đỡ nhau, nên mới có nhiều, ít không giống nhau; vì vậy nói chín duyên sanh ra thức.
(Tướng Phần: Tướng tức là hình tướng. Phần nghĩa là phận. Vì thế gian có vô số cảnh giới, màu sắc hình tướng. Hễ những gì có danh, tướng đều là tướng phầncủa thức thứ tám).
Một, Minh duyên. Minh tức là ánh sáng của mặt trời, mặt trăng có thể làm rõ tướng của màu sắc. Vì mắt nhờ ánh sáng mà thấy, không có ánh sáng thì Nhãn Thức không thể phát ra, nên ánh sáng là duyên của Nhãn Thức.
Hai, Không Duyên. Không là bao la, không có trở ngại, và có thể làm hiển lộ tướng của sắc. Vì mắt nhờ khoảng trống mới có thể thấy được; tai cũng vậy mới có thể nghe được. Không có khoảng trống thì thức của mắt, tai không thể phát ra tác dụng; nên khoảng không là duyên của Nhãn Thức là Nhĩ Thức.
Ba, Căn Duyên. Căn là năm căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Vì Nhãn Thức nương vào Nhãn Căn mới có thể thấy; Nhĩ Thức nương vào Nhĩ Căn mới có thể nghe; tỷ thức nương vào tỉ căn mới có thể ngửi; Thiệt Thức nương vào thiệt căn mới có thể nếm; Thân Thức nương vào Thân Căn mới có thể biết. Nếu không có năm căn thì năm thức không có chỗ nương, nên năm căn là duyên của năm thức.
Bốn, Cảnh Duyên. Cảnh là năm trần sắc, thinh, hương, vị, xúc. Vì năm căn, tuy có đủ năm thức, nhưng nếu không có năm trần cảnh làm đối tượng thì năm thức cũng không nguyên do để phát hiện ra; nên cảnh là duyên của năm thức.
Năm, Tác Ý Duyên. Tác ý là Tâm Sở, có nghĩa là cảnh sát. Vì khi mắt vừa đối diện với sắc, liền có thể hiểu ra, dẫn đến cảnh hướng tới, khiến cho thức thứ sáu liền khởi lên niệm phân biệt tốt, xấu hay thiện, ác. bốn thức còn lại cũng như vậy hiểu ra và dẫn đến cảnh hướng tới. Vì vậy tác ý có mặt tất cả các cảnh của thức; cho nên tác ý là duyên của sáu thức đầu.
(Tâm Sở là thọ, tưởng, hành đối với năm uẩn).
Sáu, Căn bản y duyên. Căn bản tức là thức thứ tám A Lại Da. Y tức là nương tựa, ủy thác. Vì thức thứ tám là căn bản của các thức. Tướng Phần của thức thứ tám là nơi ủy thác sáu thức đầu mà khởi lên, nên căn bản y là duyên của thức thứ sáu và thức thứ tám.
Bảy, Nhiễm Tịnh Y Duyên. Nhiễm, tịnh y là thức thứ bảy Mạt Na. Vì tất cả các pháp ô uế, trong sạch đều nương vào thức này mà chuyển động. Vì sáu thức đầu, đối với cảnh của sáu trần, khởi lên các phiền não, hoặc nghiệp, thì chuyển các pháp ô uế phiền não này trở về thức thứ tám mà trở thành hữu lậu. Nếu sáu thức trước theo các đạo phẩm (37 phẩm trợ đạo) tu tập nghiệp trong sạch, thì chuyển các pháp trong sạch này trở về thức thứ tám mà trở thành vô lậu. Vì vậy gọi là nhiễm tịnh y; nhưng thức thứ bảy cũng dựa vào thức thứ tám mới có thể chuyển động được; thức thứ tám dựa vào thức thứ bảy mà tùy duyên (thuận theo hoàn cảnh, luân phiên dựa vào, ủy thác cho nhau). Vì vậy nhiễm tịnh y là duyên của tám thứ thức.
Tám, Phân Biệt Y Duyên. Phân biệt là thức thứ sáu. Thức này có khả năng phân biệt các pháp thiện ác, hữu lậu vô lậu, sắc tâm. Vì năm căn tuy là có khả năng nhận lấy cảnh, nhưng đều dựa vào này mới có thể phân biệt, nên biết rằng cảnh đối với năm căn có tốt, xấu do phân biệt mà sanh ra. Nhiễm, tịnh của thức thứ bảy do phân biệt mà biết. Tướng Phần của thức thứ tám do phân biệt mà hiển lộ. Vì vậy phân biệt y là duyên của tám thứ thức.
Chín, Chủng Tử Duyên. Chủng Tử tức là Chủng Tử của tám thứ thức. Vì Nhãn Thức dựa vào Chủng Tử của Nhãn Căn mới có thể thấy sắc; Nhĩ Thức dựa vào Chủng Tử của Nhĩ Căn mới có thể nghe tiếng; tỷ thức dựa vào Chủng Tử của tỷ căn mới có thể nghe (ngửi) hương; Thiệt Thức dựa vào Chủng Tử của thiệt căn mới có thể nếm vị; Thân Thức dựa vào Chủng Tử của Thân Căn mới có thể nhận ra khi tiếp xúc; Ý Thức nương vào Chủng Tử của ý căn mới có thể phân biệt; thức thứ bảy nương vào Chủng Tử nhiễm, tịnh mới có thể tương tục; thức thứ tám nương vào Chủng Tử của nó chứa đựng mới có thể sanh tất cả các pháp. Vì các thức, mỗi thứ, đều dựa vào chủng Tử Mà sanh, nên Chủng Tử là duyên của tám thức.
Niệm kinh cũng là chấp tướng, nên làm như thế nào mới là đúng?     Soup Rong Biển Nấu Rau Cải .     KHÔNG BIẾT ĐỦ THÌ BAO NHIÊU CHO ĐỦ     Triết Lý     Sự khác biệt giữa tượng Phật Thích Ca và Phật Di Đà ?     Thế nào là nổi nghi tình?     An Sĩ Toàn Thư – Quyển Hai – Khuyên Những Người Đánh Bắt Chim ( P.2 )     Trì Chú Qua… Điện Thoại     Giết Oan Bạn Đời     Năm Trăm Bộ Sách – Vỏn Vẹn Ba Câu     


















Pháp Ngữ
Thôi thà đừng biết cho xong
Biết bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu!


Tháng Năm  

 



Đăng nhập


Playist


Bạn cần đăng nhập

Tu sĩ Việt Nam



Tu sĩ Quốc Tế


Album mới






Chuyên trang này được lập ra và hoạt động theo tinh thần Pháp Thí .
Tất cả các Kinh/Sách Phật Học trên trang này được sưu tầm từ các website Phật Giáo nên Ban Quản Trị có thể thiếu xót về mặt tác quyền đối với một số sách Phật Học .
Nếu quý Phật Tử / Tổ chức nào đang nắm tác quyền của các tác phẩm trên xin vui lòng Thông báo cho Ban Quản Trị biết, chúng tôi sẽ trao đổi trực tiếp để có thể có được bản quyền hợp lệ đối với các Sách Phật Học đó.
Ban Quản Trị trân trọng cám ơn.


Website có tất cả 78,946 pháp âm và 7,152 album thuộc tất cả các thể loại.
Có tổng cộng 138,925 lượt nghe.
Tổng số tu sĩ trong website 287, gồm cả tu sĩ trong nước và cả quốc tế.
Hiện đang có 1,332 thành viên đã đăng ký. Chào mừng thành viên mới nhất Minh Đức Phạm
Lượt truy cập 36,593,303